Tổng hợp tóm tắt diễn biến – phiên hiệu các đơn vị pháo binh trên chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước
1. Năm 1960
- Sau chiến thắng Tua Hai, tháng 1/1960, Ban Quân sự Miền (R) thành lập Đại đội trợ chiến, lấy phiên hiệu là C315, tổ chức gồm 3 trung đội, trang bị DKZ 57, cối 81mm và súng 12,7mm thu được của địch. Đây là đại đội pháo đầu tiên ở chiến trường Nam Bộ.
2. Năm 1961
- Tiểu đoàn pháo 200 (X200) trang bị 8 khẩu sơn pháo 75mm bổ sung cho chiến trường Tây Nguyên, xây dựng cơ sở ở huyện 40 tỉnh Kontum.
- Thành lập 3 tiểu đoàn pháo binh mang phiên hiệu 95, 300, 400 trang bị sơn pháo 75mm để chuẩn bị bổ sung cho chiến trường Quân khu 5. Năm 1963 vào đến Khu 5.
- Tiểu đoàn 1 – Lữ đoàn 368 pháo binh được bổ sung cho Mặt trận Tây Nguyên B3 và Tiểu đoàn 1 pháo binh của Sư đoàn 338 sang Lào.
3. Năm 1962
- 3 tiểu đoàn pháo binh bổ sung cho mặt trận B2 là tiểu đoàn 17, tiểu đoàn 19, tiểu đoàn 13.
- Bộ Tư lệnh miền thành lập tiểu đoàn pháo binh 35 (Mật danh là Z35) lấy nòng cốt là Đại đội pháo binh 15 của Miền và Đại đội pháo binh 5 của Trung đoàn bộ binh 2.
4. Năm 1963
- Khu 9 thành lập các tiểu đoàn pháo binh mang phiên hiệu: 10, 18, 207, 198, 700 trang bị DKZ57, cối 82mm và 12,7mm
- Ngày 30/10/1963, Bộ chỉ huy Miền quyết định thành lập Đoàn pháo binh chủ lực đầu tiên (Cấp Trung đoàn), gọi tắt là U80. Tổ chức gồm có 6 tiểu đoàn pháo binh (Z) là Z35, Z39, Z41, Z37, Z43, Z52; 2 đại đội pháo binh là Đại đội 18 và Đại đội chỉ huy.
5. Năm 1964
- Ngày 19/8/1964 Bộ Tư lệnh Miền đổi tên Đoàn pháo binh Miền U80 thành Đoàn 563 pháo binh.
- Ngày 20/7/1964 ở Khu 9 (miền Tây Nam Bộ) thành lập Đoàn 480 (Trung đoàn 4 pháo binh) gồm các tiểu đoàn 198, 217, 700
- Bổ sung cho Mặt trận Tây Nguyên 2 tiểu đoàn pháo binh là Tiểu đoàn 32 và Tiểu đoàn 30
6. Năm 1965
- Đoàn 563 pháo binh đổi tên thành Đoàn 69 pháo binh Miền, tổ chức tương đương cấp Sư đoàn, có 5 tiểu đoàn pháo binh.
- Các mặt trận khác tổ chức tiểu đoàn pháo binh, ở Trị Thiên – Quảng Đà – Tây Nguyên (Tiểu đoàn 200)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét